Địa điểm du lịch Kênh gym
Hue

Lăng Thiệu Trị với thế đất phong thủy

14/10/2016 - 5287 view
Lăng Thiệu Trị với thế đất phong thủy

Vua Thiệu Trị là con trưởng của vua Minh Mạng, tính tình thuần hòa, yêu chuộng văn chương, lại dùng nhiều thuật ngữ địa lý phong thủy trong các sáng tác của mình. Như bài tựa cuốn “Ngự đề đồ họa thi tập” ông viết đại ý: “Nhìn lên trời cao để xem thiên văn, ngó xuống đất rộng để xét địa cuộc, ngẫm về thế đất cát hung và cảnh chim muông tụ tán, lấy chứng cứ gần gũi nơi mình cũng như đưa tầm mắt để quan sát vạn vật từ xa, thấy rõ trăm dòng sông cuộn chảy như lụa là và núi đồi trùng điệp vươn cao như ngàn xanh đúc sẵn. Đất ấy, trời ấy, vật ấy, sông ấy, núi ấy vốn từ một nguyên khí tản mác, có duyên tụ lại nơi ngòi bút để thành đồ họa dưới tay người”.

- Ông nhắc đến vùng đất xưng vương của họ Nguyễn với linh mạch trào lên thành dòng nước ấm ở huyện Hương Trà bên nguồn tả trạch (doanh doanh linh mạch triều phiên nhất hoằng ôn thủy), ca ngợi đồi Hà Khê có thế rồng quay đầu nhìn lại (long bàn hồi thủ) và hổ rống trên cao (hổ khiếu cao tôn) cũng như núi Ngự Bình làm nơi chầu về của muôn núi (quần phong triều củng) hoặc sông Hương với trăm dòng đổ về (bách xuyên hợp phái)...

Lúc vua cha mất, ông điều động cả vạn dân binh để tiếp tục hoàn tất lăng Minh Mạng theo đề án để lại. Nhưng đến lượt ông, thì ngay cả việc tự tìm một cuộc đất cát tường vừa ý mình để xây lăng cũng không kịp. Ông lâm bệnh mất lúc mới 41 tuổi. Giờ hấp hối, ông gọi hoàng tử thứ hai là Hồng Nhậm (bấy giờ mới 19 tuổi, tức vua Tự Đức sau này) đến dặn dò việc xây lăng cho ông. Tự Đức lập tức triệu tập các thầy địa lý đi khảo sát quanh vùng Phú Xuân tìm ra một cuộc đất tốt cách kinh thành không xa lắm, thuộc địa bàn làng Cư Chánh, huyện Hương Thủy, trên một vùng núi thấp (Thuận Đạo).

Đến đây, để tìm hiểu thêm về địa thế phong thủy nơi các lăng vua Nguyễn, trong đó có lăng Thiệu Trị (gọi Xương Lăng), được xây ở các vùng đồi núi ngoài kinh thành, thiết tưởng cần tham khảo Địa lý gia truyền nổi danh của cụ Tả Ao. Theo đó, trên núi đá thường không có huyệt (phàm thạch sơn bản vô huyệt), song nếu phát hiện thấy núi đá nào có những vụng đất mềm tức chỗ ấy có thể được (nhược kiến oa hình, thổ nhuận nghi điểm chi, giác thư vi quý). Còn nếu trên núi đá không thấy có khí mạch lưu thông hãy tìm xuống phía dưới, thấy chỗ nào có đất mềm mới điểm (nhược vô thạch mạch tụ, tựu hạ ư thổ xứ điểm chi).

- Theo cụ Tả Ao, núi đá cũng như xương người, phàm thô cứng không có huyệt, song nếu thấy hai bên tả hữu, phía trước hoặc sau núi đều phân minh và có khí lành chung tụ, thì có thể xem kỹ để chọn. Nếu thấy trước mặt toàn là đá mà không có đất ắt phải cẩn thận, không nên dùng búa hoặc các vật dụng cứng như đinh, đục để đào khoét làm huyệt, vì như thế sẽ không tốt. Mà phải dùng phép đặt quan tài trên mặt đá, xong lấy đất chỗ khác chở về đắp cao độ năm thước ta, như thế có thể biến nơi ấy thành phúc địa (Bất nghi phủ đinh quật chi - kỳ pháp, trí quan ư thạch thượng, dĩ khách thổ bồi chi - cao hậu ngũ xích diệc phát phúc dã). Đến lúc điểm huyệt, cụ Tả Ao nhắc nhở: “long bản quý khí tại tỵ - Nghi điểm chỉ Quy bản huyệt tại kiên, vật dụng ư sát dã - long điểm ư thần, tận khí dã”, được nhà nghiên cứu địa lý và phong thủy học Cao Trung luận: “Rồng vốn quý ở nơi mũi (chỗ thở ra thở vào tức là nơi khí chung tụ) nên phải điểm vào mũi, chứ đừng điểm thấp xuống miệng rồng (là chỗ tận khí, không tốt). Rùa, nếu huyệt ở vai hãy nên điểm vào vai, chứ đừng điểm cao lên chỗ mai rùa (là chỗ không tốt)”...

Chọn đất xong, vua Tự Đức sai đại thần Vũ Văn Giải đôn đốc dân binh bắt tay xây gấp lăng Thiệu Trị vào giữa tháng 2/1848. Đến đầu tháng 5 năm ấy, một số công trình chủ yếu trong lăng Thiệu Trị đã xong và không xây La thành bọc ngoài (như lăng Minh Mạng) mà lấy những dãy đồi nhấp nhô quanh vùng làm thế vây bọc tự nhiên. Mặt trước lăng Thiệu Trị nhìn ra một vùng đất rộng thoáng đãng về hướng Tây Bắc, xa xa đồi Vọng Cảnh hiện lên phía hữu và núi Ngọc Trản nằm phía tả - hình thành thế “tả long hữu hổ” hộ lăng. Mặt sau lăng Thiệu Trị dựa vào núi Thuận Đạo. Trong lăng đào các hồ Nhuận Trạch, hồ Ngưng Thúy, hồ Điện, trổ dòng nước chảy thông ra ngoài bằng những đường cống ngầm dưới đất, xây lầu Đức Hinh, điện Biểu Đức, cầu Chánh Trung, cầu Đông Hòa, cầu Tây Định bên trên...

Xem xét cuộc đất và thế phong thủy lăng Thiệu Trị, các nhà nghiên cứu nhận định rằng, lăng Thiệu Trị ở vào vị thế “sơn chỉ thủy giao” với ngọn núi Chằm làm tiền án nhô lên cách đó chưa đầy 10 cây số, núi Kim Ngọc từ xa và mô đất lớn được đắp đàng sau làm hậu chẩm. Lăng Thiệu Trị còn đặc biệt ở chỗ, mặt quay về hướng Tây Bắc, một hướng chưa bao giờ được dùng trong các công trình kiến trúc lớn ở Huế thời bấy giờ.

TTXT du lịch Huế

Mục lục

Du lịch Huế
   (I) Quần thể di tích Cố đô Huế
         (1) Kinh thành Huế
                  - Đại Nội Huế
                  - Bảo tàng cổ vật cung đình Huế
                  - Quốc Tử Giám Huế
         (2) Lăng tẩm Huế
                  - Lăng Gia Long
                  - Lăng Minh Mạng
                  - Lăng Thiệu Trị
                  - Lăng Tự Đức
                  - Lăng Khải Định
         (3) Di tích khác
                  - Cung An Định
                  - Chùa Thiên Mụ
                  - Đàn Nam Giao
                  - Điện Hòn Chén
   (II) Quanh Huế
            - Chợ Đông Ba
            - Cầu Trường Tiền
            - Bãi biển Thuận An
            - Phá Tam Giang
            - Bãi biển Lăng Cô
            - Vườn quốc gia Bạch Mã
            - Làng cổ Phước Tích